Chuyển đến nội dung chính

Ý nghĩa và vai trò của việc nâng hạng thị trường chứng khoán


I. Khái niệm về xếp hạng thị trường

Trên thế giới thị trường tài chính được xếp hạng chính vào 3 nhóm chính, cao nhất là thị trường phát triển, thị trường mới nổi, thị trường cận biên.
Có ba tổ chức lớn xếp hạng thị trường bao gồm MSCI, FTSE Russell, S&P Dow Jones. Các tổ chức này đánh giá xếp hạng thị trường định kỳ hàng năm. Mỗi một tổ chức có một hệ thống tiêu chí đánh giá riêng nhưng đều tập trung vào các khía cạnh cơ bản như: Mức độ phát triển của nền kinh tế, sự ổn định chính trị, quy mô và tính thanh khoản của thị trường, hiệu quả vận hành của thị trường, khả năng tiếp cận của nhà đầu tư nước ngoài, khả năng lưu chuyển vốn.
Hiện tại theo tiêu chuẩn của cả ba tổ chức xếp hạng, Việt Nam đang được xếp vào nhóm thất nhất “Thị trường cận biên”.

II. Tại sao cần nâng hạng thị trường
Nâng hạng thị trường không chỉ là cách xây dựng hình ảnh cho thị trường tài chính quốc gia mà nó còn tác động trực tiếp lên khả năng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Không chỉ riêng Việt Nam mà nhiều thị trường cận biên cũng đang nỗ lực để nâng hạng lên thị trường mới nổi bởi những lý do sau:
  •           Các thị trường mới nổi có quy mô và chất lượng tốt hơn cận biên, trong khi tiềm năng tăng trưởng lại cao hơn thị trường phát triển. Dòng vốn mà các thị trường mới nổi thu hút được có tính ổn định hơn so với những dòng tiền nóng đầu tư vào thị trường cận biên. Các quỹ đầu tư theo phương pháp thụ động tiêu biểu như ETFs, thực hiện đầu tư vào các thị trường mới nổi cũng sẽ tự động phân bổ một phần nguồn vốn vào các thị trường mới được nâng hạng lên mới nổi.
  •          Để đáp ứng các tiêu chuẩn nâng hạng thị trường lên thị trường mới nổi, bên cạnh việc gia tăng quy mô, tính thanh khoản hay mức độ tiếp cận của nhà đầu tư nước ngoài, thị trường Việt Nam có áp lực cải thiện các điều kiện giao dịch như hệ thống vận hành, khung thể chế tính minh bạch thông tin. Trong quá trình xem xét các tổ chức xếp hạng cũng chủ động hỗ trợ các quốc gia để hiếu được tình trang hiện tại cũng như các tiêu chuẩn cần được để có những thay đổi thích hợp. Quá trình này là tác nhân chính giúp các thị trường cận biên được hưởng lợi từ việc nâng hạng, trong khi quyết định nâng hạng chỉ đóng góp vai trò xác nhận trong điều kiện trên.
1. Hệ thống phân loại của MSCI

Hệ thống của MSCI được phân loại thành 3 thị trường: Thị trường phát triển, thị trường mới nổi, thị trường cận biên, ngoài ra có một số thị trường chưa được phân loại, các thị trường này được xếp vào loại thị trường độc lập.

Theo MSCI có ba tiêu chuẩn được đưa ra xem xét để phân loại thị trường bao gồm:
  • Về trình độ phát triển kinh tế, tiêu chuẩn này chỉ được dùng để xem xét đối với các trường hợp thị trường phát triển, do dó khi xét nang hạng một thị trường từ cận biên lên thị trường mới nổi cần xem xét hai tiêu chuẩn còn lại.
  • Về quy mô và thanh khoản của thị trường: Đây là nhóm tiêu chuẩn định lượng theo đó để dược nâng hạng từ cận biên lên mới nổi, tại thời điểm đánh giá một quốc gia phải có ít nhất 3 công ty thỏa mãn các điều kiện sau: Quy mô vốn công ty (>= 1269 triệu USD), Quy mô giao dịch (giá vốn hóa tự do chuyển nhượng lớn hơn 635 triệu USD), Thanh khoản bình quân hàng năm đạt 15% giá trị vốn hóa tự do chuyển nhượng (ATVR > 15%)
  • Khả năng tiếp cận thị trường: Bao gồm 18 tiêu chí phản ánh kinh nghiệm, yêu càu và những ràng buộc của giới đầu tư quốc tế đối với thị trường, được chia thành 5 nhóm: Mức độ mở đối với sở hữu nước ngoài, Mức độ dễ dàng luân chuyển dòng vốn ra vào thị trường, Hiệu quả của hệ thống vận hành, Môi trường cạnh tranh, Tính ổn định của khung thể chế.
2. Hệ thống phân loại của FTSE

Cũng giống như hệ thống phân loại của MSCI, FTSE cũng chia thị trường chứng khoán thành ba loại: Thị trường phát triển, thị trường mới nổi, thị trường cận biên.
Điều kiện xếp hạng thị trường của FTSE bao gồm
  • Thị trường và môi trường pháp lý
  • Lưu ký và thanh khoản
  • Hoạt động giao dịch
  • Phái sinh
3. Ý nghĩa khi được nâng hạng thị trường
Thông thường 1 thị trường sẽ tăng trưởng mạnh trong vòng 18 tháng trước khi MSCI đưa vào quyết định nhờ dự báo nâng hạng. Theo thống kê của EPFR Golbal, hiện tại có 491 quỹ đầu tư trên toàn cầu sử dụng MSCI là chỉ số tham chiếu (benchmark) với tổng tài sản lên đến 435 tỷ USD, trong đó ETF là 22 quỹ với 44 tỷ USD và quỹ tương hỗ là 469 quỹ với 391 tỷ USD.
Giống như các quỹ ETF ở Việt Nam thì khi chỉ số tham chiếu của các quỹ thay đổi, các qũy sẽ phải cơ cấu lại danh mục sao cho giống với chỉ số đó nhất.
Nếu được MSCI nâng hạng lên thị trường mới nổi, các cổ phiếu đủ điều kiện của Việt Nam đương nhiên sẽ được bổ sung vào chỉ số MSCI Emerging Markets Index và vì vậy các quỹ đang sử dụng chỉ sso này làm tham chiếu tự động mua các cổ phiếu của Việt Nam. Tổng giá trị mua sẽ phụ thuộc vào tỷ trọng của Việt Nam trong chỉ số.
MSCI bao gồm hơn 800 cổ phiếu thuộc 24 nước tính cả Pakistan. Nước có tỷ trọng lớn nhất là Trung Quốc 26.92% tiếp đến là Hàn Quốc và Đài loan 14.75% và 12.1%. Tỷ trọng trong từng nước trong chỉ số không hoàn toàn phụ thuộc vào tổng vốn hóa của thị trương chứng khoán nước đó mà phụ thuộc vào nhiều hơn nhưng cổ phiếu lớn, đủ điều kiện để vào chỉ số
Nếu so sánh với Pakistan, tổng vốn hóa thị trường và các cổ phiếu lớn của Việt nam có phần nhỉ hơn.Cụ thể thổng vốn hóa củ thị trường chứng khoán Việt Nam là 101 tỷ USD có hơn Pakistan là 94 tỷ USD. Nếu so sánh với Peru, tổng vốn hóa thị trường của Việt Nam và Pakistan đều lớn hơn, tuy nhiên tỷ tọng của Peru lại lên đến hơn 0.35%, cao gấp đôi Pakistan do Peru có một số công ty lớn với tỷ lệ tự do chuyển nhượng cao.
Ước tính một cách thận trọng, giả định Việt Nam có tỷ trọng 0.2% trong chỉ số MSCI Emerging Markets Index. Với tỷ trọng này tổng lượng tiền mà các quỹ đang sủ dụng MSCI làm tham chiếu phải mua các cổ phiếu đủ điều kiện của Việt Nam là 871 triệu USD.
  •          MSCI Emerging Markets Index chỉ là một trong nhiều chỉ số liên quan đến thị trường mới thị trường mới nổi theo MSCI. MSCI còn có nhiều chỉ số khác nữa,…Tương ứng với mỗi chỉ số lại có một số quỹ sử dụng làm tham chiếu. Ví dụ chỉ số MSCI Emerging Markets SmallCap đang có 24 quỹ làm tham chiếu. Theo thống kê của MSCI hiện có tới 1,6 nghìn tỷ USD tài sản đang sử dụng chỉ số liên quan đến MSCI, điều này có nghĩa là lượng tiền thực tế từ các quỹ sử dụng chỉ số của MSCO sẽ lớn hơn nhièu con số 871 triệu USD.
  •          Ngoài MSCI còn có 2 tổ chức cung cấp chỉ số khác là FTSE và S&P Dow Jones. Hiện cũng có nhiều quỹ đang sử dụng chỉ số của hai tổ chức này. Ngoài ra nhân tố khách quan là quy mô tài sản của các quỹ, một nhân tố chủ quan đến lượng tiền đổ vào Việt Nam đó là vốn hóa đặc biệt là tỷ lệ tự do chuyển nhượng trong các công ty vốn hóa lớn, yếu tố quyết định tỷ trọng của cổ phiếu trong chỉ số. Điều này có nghĩa là Việt Nam có thể nâng được tỷ trọng, tăng dòng tiền vào Việt Nam nếu có những chiến lược sớm về thoái vốn, tăng tỷ lệ tự do chuyển nhượng bên cạnh việc thúc đẩy các công ty lớn lên sàn.
  •           Dòng tiền đổ vào Việt Nam khi được nâng hạng sẽ không chỉ đến từ các quỹ đầu tư theo chỉ số. Sẽ còn có nhiều quỹ, nhà đầu tư khác quan tâm đến Việt Nam khi Việt Nam được nâng hạng do khi đó thị trường có độ mở, khả năng đầu tư và tính công khai minh bạch của Việt Nam đã lên một tầm cao mới. Đây mới là yếu tố hấp dẫn mang tính dài hạn của TTCK Việt Nam.





Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này